SÁNG KIẾN DỰ THI GVDG CẤP THỊ XÃ CỦA CÔ GIÁO BÙI THỊ LOAN-

Lượt xem:

Đọc bài viết

ĐỀ TÀI

 

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TÍCH CỰC TRONG CÔNG TÁC

CHỦ NHIỆM LỚP Ở TIỂU HỌC

 

PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU

 

  1. Lý do chọn đề tài:

 

Đất nước ta đang tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là định hướng chiến lược đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Thời đại mà trí tuệ con người được coi là tài sản quý báu tạo nên mặt bằng cao về dân trí. Trong đó giáo dục đóng vai trò quan trọng để thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia “Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh đáp ứng được những yêu cầu phát triển đất nước”.

Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người không chỉ của riêng ngành giáo dục mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân. Đối với nước ta, giáo dục được xác định là “quốc sách hàng đầu”, là vô cùng quan trọng và cấp thiết bởi sự thành đạt của một con người, sự phát triển của một thế hệ, sự hưng thịnh của đất nước đều phụ thuộc vào kết quả của hoạt động giáo dục “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Hơn thế, trong một thời đại hội nhập kinh tế, thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay thì giáo dục lại vô cùng cần thiết.

Làm thế nào để những người chủ tương lai của đất nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế nào để sự nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt? Đây chính là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của tất cả những người làm công tác giáo dục.

Hưởng ứng phong trào vận động “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ GD&ĐT đã phát động; mỗi giáo viên không chỉ không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp dạy học sao cho phù hợp với quá trình hội nhập và phát triển của đất nước mà còn không ngừng đổi mới cách tổ chức, quản lí lớp học để các em đến trường với tâm trạng thoải mái, vui tươi, tạo không khí lớp học đầm ấm, nhẹ nhàng để tất cả học sinh không phải “ sợ” đến trường mà các em luôn cảm nhận được “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.

Bởi vậy, người gần gũi nhiều nhất với các em học sinh, người luôn ở bên cạnh giải đáp mọi khó khăn thắc mắc của các em, người mà các em kính trọng và yêu quí nhất, người mà được các em xem như là cha là mẹ không ai khác chính là người giáo viên chủ nhiệm lớp.

Xuất phát từ thực tế cũng như những gì tôi đã làm, tôi luôn tâm niệm làm sao để dạy dỗ, giáo dục các em trở thành người hữu ích cho xã hội, xứng đáng với hình ảnh đẹp mà xã hội cũng như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý vì nó tạo ra những con người sáng tạo”.

Để thực hiện điều này, tôi quyết tâm làm tốt công tác chủ nhiệm. Vì vậy, trong năm học 2016-2017, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp ở tiểu học”.

 

  1. Mục đích nghiên cứu:

 

– Đưa ra những giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm ở lớp 5 trường tiểu học Trần Quốc Toản xã Ea Drông, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk.

 

  1. Nhiệm vụ nghiên cứu:

 

– Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của lớp chủ nhiệm.

– Điều tra thực trạng của lớp chủ nhiệm. Nghiên cứu, nắm rõ việc thực hiện nhiệm vụ của học sinh lớp trên các khâu xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể của lớp đầu năm. Việc thực hiện kế hoạch, chương trình năm học của lớp đó đặc biệt chú ý đến việc tổ chức hoạt động, rèn luyện hai mặt giáo dục của học sinh và hoạt động thi đua của lớp.

– Phân tích rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan có ảnh hưởng mạnh đến hoạt động của lớp.

– Đưa ra những biện pháp cơ bản mà giáo viên chủ nhiệm lớp đã trực tiếp áp dụng để chỉ đạo mọi hoạt động của lớp đem lại kết quả tốt.

– Tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm.

   

  1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:

 

– Học sinh lớp 5A3, trường tiểu học Trần Quốc Toản năm học 2016 – 2017.

– Những kinh nghiệm và giải pháp trong công tác chủ nhiệm lớp.

 

5.Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
– Phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. Cụ thể là 25 em học sinh lớp 5A3 tôi chủ nhiệm. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống là do nhận thức, ý thức tự giác, giao tiếp còn kém và những đề xuất nhằm hoàn thiện năng lực, phẩm chất, nhân cách đạo đức chuẩn mực của từng học sinh lớp 5A3 trường TH Trần Quốc Toản – xã Ea Drông, thị xã Buôn Hồ.

– Rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài.
– Thời gian thực hiện nghiên cứu và áp dụng từ đầu tháng 9/2016 đến cuối tháng 5/2017.

 

  1. Phương pháp nghiên cứu:

 

    – Phương pháp điều tra.

– Phương pháp nghiên cứu.

– Phương pháp quan sát.

– Phương pháp trắc nghiệm.

– Phương pháp phân tích.

– Phương pháp so sánh, tổng hợp.

– Phương pháp tổng kết, đúc rút kinh nghiệm.

 

  1. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:

 

– Giúp người GV chủ nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh hơn, quan tâm, sát sao đến mọi hoạt động của học sinh để từ đó giáo  dục các em ngày càng tốt hơn.

– HS không còn tâm lí ngại gần gũi, ngại tiếp xúc với giáo viên chủ nhiệm lớp, tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học tập cũng như trong mọi hoạt động của lớp, của trường

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN II: NỘI DUNG

 

  1. Cơ sở lí luận:

 

  1. a) Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học:

 

Lứa tuổi học sinh tiểu học là tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức lĩnh hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp thu một hệ thống tri thức về các môn học, trẻ em học cách học, học kĩ năng sống trong môi trường trường học và môi trường xã hội. Cùng với sự ảnh hưởng khá lớn của môi trường giáo dục gia đình và quan hệ bạn bè cùng tuổi, cùng lớp và trường học, học sinh tiểu học lĩnh hội các chuẩn mực quy tắc đạo đức của hành vi. Sự lĩnh hội trên tạo ra những biến đổi cơ bản trong sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học.

Giáo dục không chỉ đảm bảo cho các em thích ứng với cuộc sống nhà trường và hoạt động học, mà còn chuẩn bị cho các em những bước ngoặt quan trọng trong cuộc sống ở tuổi thiếu niên- lứa tuổi có xu thế vươn lên làm người lớn. Về việc này, N.X.Leytex đã khắc họa: “ Tuổi tiểu học là thời kì của sự nhập tâm và tích lũy tri thức, thời kì mà sự lĩnh hội chiếm ưu thế. Chức năng trên được thực hiện thắng lợi nhờ các đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi này – sự tuân thủ tuyệt đối vào những người có uy tín với các em (đặc biệt là thầy, cô giáo làm công tác chủ nhiệm lớp), sự mẫn cảm, sự lưu tâm, đặc biệt là thái độ vui chơi ngây thơ đối với các đối tượng mà các em được tiếp xúc. Học sinh tiểu học là nhân vật trung tâm, là linh hồn của trường tiểu học.

Ở đấy, trẻ đang từng ngày, từng giờ tự hình thành cho mình những năng lực của người ở trình độ sơ đẳng như : sử dụng tiếng mẹ đẻ, năng lực tính toán, năng lực làm việc trí óc, …. Cùng với các năng lực trên là sự hình thành tình cảm, thái độ và cách cư xử phù hợp với dân tộc và văn minh nhân loại hiện đại. Học sinh tiểu học ngày nay là những chủ thể đang trở thành chính mình bằng hoạt động của mình dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn theo phương pháp nhà trường hiện đại.

 

  1. b) Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp

 

– Giáo viên chủ nhiệm lớp được thay mặt hiệu trưởng quản lí và giúp lớp tổ chức học tập, rèn luyện đạt mục tiêu đào tạo, giáo viên chủ nhiệm vừa đóng vai quản lí hành chính nhà nước, vừa đóng vai trò người thầy giáo, cô giáo đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập thể lớp.

– Là người chủ chốt của trường làm công tác giáo dục học sinh.

– Nắm chắc tư tưởng, tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện của học sinh, phối hợp với gia đình và đoàn thể để giúp đỡ, cảm hóa học sinh trong rèn luyện để trở thành người tốt cho xã hội.

– Giáo viên chủ nhiệm có vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng cũng như hình thành nhân cách cho học sinh. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm khi tham gia công tác giáo dục không chỉ là nắm được những chỉ số của quản lí hành chính đơn thuần như tên, tuổi, số lượng, hoàn cảnh gia đình của học sinh, trình độ học sinh về học lực, hạnh kiểm mà còn phải dự báo xu hướng, tổ chức giáo dục, dạy học phù hợp điều kiện khả năng của từng học sinh.

 

  1. c) Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm:

 

– Giảng dạy các bộ môn, tổ chức giáo dục rèn luyện học sinh.

– Học tập, nâng cao sự hiểu biết, đạt trình độ chuẩn, phấn đấu đạt trên chuẩn.

– Nêu cao các phẩm chất trong công tác giáo dục học sinh:

+ Gần gũi yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh, an tâm với nghề dạy học ở tiểu học.

+ Có ý thức trách nhiệm, tinh thần khắc phục khó khăn, tận tụy sáng tạo trong lao động sư phạm.

+ Gắn bó mật thiết với tập thể sư phạm và cộng đồng.

+ Sống giản dị, lành mạnh, trung hậu, bao dung, vui tươi, cởi mở. Có tác phong mẫu mực.

+ Ham hiểu biết cái mới, luôn năng cao trình độ, kĩ năng nghề nghiệp và rèn luyện tự hoàn thiện nhân cách.

 

  1. Thực trạng:

 

           2.1. Tình hình lớp chủ nhiệm

 

– Đầu năm học 2016 – 2017 tôi được Ban Giám Hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 5A3, đây là lớp 4A3  của năm học 2015 – 2016.

– Tổng số học sinh: 25 em trong đó: Nữ:12 em; dân tộc: 25 em; nữ dân tộc: 12 em.

 

  1. Thuận lợi:

 

– Giáo viên chủ nhiệm nhận được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát của chi bộ Đảng, của Ban Giám Hiệu, của Công đoàn và các ban ngành trong Hội đồng sư phạm nhà trường.

– Giáo viên chủ nhiệm nhiều năm là giáo viên giỏi cấp trường, có chuyên môn vững vàng,có nhiều năm kinh nghiệm dạy lớp 5, luôn có ý thức học hỏi, tìm tòi sáng tạo, nhiệt tình giảng dạy, luôn chăm lo và quan tâm đến học sinh.

– Đội ngũ các thầy cô giáo bộ môn nhiệt tình, yêu nghề và trách nhiệm cao, chuyên môn vững vàng.

– Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và học.

– Một bộ phận phụ huynh học sinh đã quan tâm đến việc học của các em.

– Các em có ý thức học tập, ngoan ngoãn, đoàn kết, tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường.

 

  1. b) Khó khăn:

 

– Đa số các em là học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống của người dan nơi đây còn gặp rất nhiều khó khăn.

– Địa bàn thuần nông, thời gian đi làm là nhiều, ít có thời gian dành cho sự dạy dỗ, chỉ  bảo cho con cái.

– Lớp có 3 em thuộc hộ cận nghèo và một số em gia đình kinh tế còn khó khăn nên ảnh hưởng đến cuộc sống của các em, sự chăm lo về mọi mặt không được  đầy đủ, chu đáo. Có 6 em nhà ở xa trường, việc đi lại tốn nhiều thời gian, đi suốt đoạn đường xa, mệt mỏi nên ảnh hưởng tới sức khỏe khi các em đến lớp.

-Trình độ tiếp thu của học sinh không đồng đều, một số em  chậm đọc, chậm viết, chậm tính toán, khả năng vận dụng kiến thức còn hạn chế, chưa chăm chỉ học tập nên kết quả học tập chưa cao.

– Một số em còn mải chơi, học kém nên chán học.

– Đa số vốn giao tiếp của các em rất hạn chế, lời nói chưa được to, rõ ràng, hay có kiểu  nói  rất  nhỏ, nói  lắp  bắp, không  thể  nghe  được.

– Phụ huynh chưa có sự quan tâm nhiều đến con em mình, ít gặp gỡ giáo viên để trao

đổi về việc học tập, sinh hoạt của con em mình ở trường cũng như ở nhà.

– Một số phụ huynh coi việc giáo dục trẻ lả bổn phận và trách nhiệm của nhà trường mà đặc biệt là của giáo viên chủ nhiệm lớp.

 

2.2. Thực trạng vấn đề:

 

– Nhiệm vụ cơ bản của nhà trường là dạy và học trong đó nhiệm vụ trọng tâm là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Bản thân tôi là một giáo viên chủ nhiệm , tôi xác định rõ : Để nâng cao chất lượng dạy và học, trước tiên phải làm tốt công tác chủ nhiệm, phải tìm ra những biện pháp tích cực nhất phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của lớp.

– Ở lớp tôi chủ nhiệm có 100% các em đều là con em đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống của người dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn, khả năng giao tiếp của các em có nhiều hạn chế, phần lớn các em còn rụt rè, nhút nhát, ngại giao tiếp.

– Một số em có hoàn cảnh khó khăn như:

+ Em H Hiêng gia đình thuộc diện hộ nghèo.

+ Em Y Seng gia đình thuộc diện hộ nghèo

+ Em H Ra Ni bố mất sớm, mẹ bỏ đi, sống với bà.

– Nhiều phụ huynh không có việc làm ổn định, phải bươn chải cuộc sống làm thuê, làm mướn nên ít có điều kiện để quan tâm chăm sóc con cái.

– Lớp có 4 học sinh cá biệt :

+ Em Y Phok : tiếp thu chậm, nghịch ngợm, chưa chăm chỉ trong học tập.

+ Em Y Goe : tiếp thu chậm, còn mải chơi, chưa tự giác trong học tập.

+ Em Y Hiêk: chậm đọc, chậm viết, chậm tính toán, chưa tự giác trong học tập

không chịu khó học tập.

+ Em Y Sơ Bat rụt rè, nhút nhát, chậm đọc, chậm viết, chậm tính toán.

– Trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động đã có đầy đủ các chỉ tiêu tổng thể trên các mặt hoạt động , có chỉ tiêu chi tiết đến từng học sinh. Nhưng vì kế hoạch chủ nhiệm, chỉ tiêu đăng ký phải có ngay từ đầu tháng 9 khi giáo viên mới nhận lớp, lại chưa nắm rõ học sinh. Do vậy có chỗ chưa được hợp lý ,chưa sát thực. Khi đã nắm được tình hình học sinh, bước vào việc làm cụ thể thì thấy có chỗ chưa phù hợp giữa kế hoạch và tổ chức  thực hiện .

Do vậy , để giáo dục học sinh không thể dựa hoàn toàn vào kế hoạch mà phải dựa vào tình hình thực tế. Thực sự, ở năm học trước các em học chưa đều, nhiều em chưa chăm học, giữ gìn sách vở và đồ dùng chưa tốt, nhiều em cha mẹ chưa quan tâm đến việc học tập còn phó mặc cho nhà trường.

Để nắm được thực trạng này, tôi luôn sát sao trong từng hoạt động của các em, theo dõi từng học sinh, từng thời kỳ, từng tiến bộ của các em trong học tập và cả trong các hoạt động để thấy được mặt mạnh mặt yếu của học sinh.

Theo báo cáo của lớp 4A3 năm học 2015-2016 như sau:

 

 

TS

Kiến thức, kĩ năng Năng lực Phẩm chất
Hoàn thành Chưa HT Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
25 25 100% 0 25 100% 0 25 100% 0

 

Từ thực tế trên, tôi tự hứa với lòng mình phải cố gắng thật nhiều, tìm ra giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp.

 

  1. Các biện pháp đã thực hiện:

 

Công tác chủ nhiệm lớp là một trong hai công tác vô cùng quan trọng của người giáo viên, điều này càng quan trọng hơn khi được đặt trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện – Học sinh tích cực”. Để lớp chủ nhiệm của mình thực sự thân thiện, học sinh của mình thực sự tích cực, bên cạnh việc nắm chắc vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm, tôi đã có định hướng cụ thể cho công việc của mình. Đặc biệt để xây dựng được một tập thể lớp học đoàn kết, thân thiện, tôi đặc biệt chú trọng đến các công việc sau:

 

          3.1. Tìm hiểu học sinh:

 

– Để nắm được tình hình cụ thể của từng học sinh , ngay từ những ngày đầu nhận lớp, tôi gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm cũ để nắm bắt sơ qua về tình hình của lớp đó. Sau đó tìm hiểu học sinh qua các tài liệu liên quan: Xem sơ yếu lý lịch ( hoàn cảnh HS), học bạ ( biết học lực, hạnh kiểm cũng như nhận xét của giáo viên chủ nhiệm năm học trước). Đây là tài liệu đáng tin cậy, ban đầu giúp tôi nhận biết và phân loại học sinh.

Tôi ghi chép cụ thể vào sổ riêng để tiện theo dõi và có cách giải quyết riêng với từng em.

– Tìm hiểu học sinh qua quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp học sinh hằng ngày trong các hoạt động lên lớp, ngoài giờ lên lớp để biết hành vi, thái độ của các em. Qua đó, tôi có thể cố gắng tìm ra được những nét cá tính nhất của từng em, có sự điều chỉnh hành vi cho phù hợp. Chẳng hạn, đối với những em khá rụt rè, ngại giao tiếp thì tôi sẽ tạo cơ hội để những em đó thường xuyên được phát biểu ý kiến, được tham gia nhiều hơn các hoạt động tập thể. Còn đối với những em khá nghịch ngợm thì có thể tôi giao cho các em đảm nhận một vai trò nào đó trong các hoạt động để giúp em tự biết điều chỉnh hành vi của mình.

Nếu các em có những biểu hiện chưa tốt thì giáo viên có kế hoạch giúp đỡ kịp thời để các em sửa chữa.

– Trao đổi, chia sẻ: Tôi chủ động đến gặp một số em, để hỏi thăm thêm về gia đình, hoàn cảnh sống thường ngày của gia đình,…động viên, chia sẻ, giúp đỡ.

– Để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em trong học tập, sinh hoạt  tôi đã làm 1 chiếc hộp xinh xắn được trang trí rất đẹp để các em ghi những điều mình muốn nói , muốn bày tỏ rồi tự tay các em bỏ vào chiếc hộp đó, cứ sau một tuần vào giờ sinh hoạt tôi lại mở ra. Từ những dòng chữ tuy ngắn gọn thậm trí viết sai chính tả nhưng tôi hiểu các em cần gì, muốn gì.

– Tìm hiểu học sinh thông qua liên hệ, trao đổi điện thoại với phụ huynh hoặc tìm đến gia đình những học sinh có hoàn cảnh khó khăn để hiểu và có sự cảm thông đối với các em.

Cuối mỗi học kì, tôi bàn bạc với Ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp trích quỹ lớp để khen thưởng, động viên những học sinh vượt khó vươn lên trong học tập.

 

  • Xây dựng đội ngũ học sinh:

 

Tôi thiết nghĩ, giao các trách nhiệm quản lý tổ, nhóm, hay lớp học là một hình thức trao cho các em khả năng lãnh đạo, các em sẽ có cơ hội để phát huy sở trường của mình đồng thời rèn tính tự giác, kỷ luật cho bản thân, vừa giúp các em có được kỹ năng làm việc và thể hiện mình trong một nhóm đông người. Những kỹ năng này là cần thiết trong xã hội hiện đại, nếu được rèn luyện và phát triển từ nhỏ, chắc chắn các em sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp trong tương lai sau này. Bởi vậy, tôi cho các em tự ứng cử các chức danh lớp trưởng; lớp phó phụ trách học tập; lớp phó phụ trách lao động, thể dục vệ sinh; các tổ trưởng, tổ phó. Nếu không có em nào tham gia ứng cử tôi cho cả lớp bàn bạc để bình bầu ra đội ngũ tự quản của lớp ( gồm 1 lớp trưởng và 2 lớp phó, 3 tổ trưởng, 3 tổ phó) . Nhiệm vụ cụ thể như sau:

+ Lớp Trưởng: Theo dõi mọi hoạt động của lớp, điều khiển các tiết sinh hoạt hàng tuần, báo cáo kết quả thi đua về mọi mặt của lớp hàng tuần, hàng tháng cho giáo viên chủ nhiệm.

+ Lớp phó học tập: theo dõi về mặt học tập của lớp, giải đáp mọi thắc mắc của các bạn về học tập, lập kế hoạch giúp đỡ các bạn học sinh yếu kém vươn lên.

+ Lớp phó Lao động, văn thể mĩ: Chịu trách nhiệm về mặt lao động vệ sinh của lớp, nhắc nhở trực nhật. Tổ chức theo dõi, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao do Tổng phụ trách Đội, do trường tổ chức.

+Tổ trưởng: Theo dõi các hoạt động của tổ, nắm kết quả học tập của từng tổ viên, xếp loại đánh giá tổ viên và báo cáo cho lớp trưởng tổng hợp. Sau khi cả lớp biểu quyết các chức danh tôi ra điều kiện: Trong thời gian từ 1 đến 2 tháng nếu bạn nào làm không tốt các em sẽ giới thiệu bạn khác, nếu em nào chưa được giới thiệu mà trong tháng có nhiều tiến bộ, có khả năng đảm nhiệm sẽ tiếp tục được giới thiệu.

Để tạo điều kiện cho các em giúp đỡ, kèm cặp nhau trong học tập tôi xếp chỗ ngồi như sau: Ưu tiên những em thị lực kém, thấp bé ngồi bàn trên; sắp xếp đảm bảo tổ nào cũng có học sinh khá, giỏi, trung bình và yếu hơn. Trong một bàn xếp em học giỏi (khá) ngồi cùng em học trung bình; em chăm học ngồi cùng em chưa chăm; em chữ đẹp, cẩn thận ngồi cạnh em chữ xấu để tạo điều kiện kèm cặp giúp đỡ nhau và xếp luôn đó làm “Đôi bạn cùng tiến”. Trong bàn đó tôi lại phân công luân phiên làm bàn trưởng: mỗi em làm bàn trưởng một tuần . Điều quan trọng là sự phân công ấy kết hợp được năng lực và nguyện vọng của các em , đôi bạn phải biết yêu thương, giúp đỡ nhau, tạo điều kiện phát huy vai trò tự quản của học sinh và các em thấy được sự quan tâm của cô giáovới các em.

Tuy nhiên hàng tháng tôi cũng có sự thay đổi chỗ ngồi nếu thấy tình hình thực tế chưa hợp lí.

 

  • Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm (Trong sổ chủ nhiệm)

 

Việc lập kế hoạch và xây dựng đội ngũ song song với nhau giúp giáo viên chú nhiệm có tầm nhìn xa, bao quát hơn trong công tác chủ nhiệm vì thế dựa trên sự tìm hiểu và nắm bắt đội ngũ học sinh, dựa vào kế hoạch nhà trường tôi lập kế hoạch tỷ mỉ, sát sao với tình hình thực tế của lớp. Phần chung có tình của lớp, kế hoạch và biện pháp thực hiện có cả năm học rõ ràng về số lượng và chất lượng. Phần cụ thể có kế hoạch và biện pháp thực hiện cho từng tháng. Có đánh giá sơ kết cho từng tháng. Phần cuối là theo dõi cho học sinh, phần này cần phải ược theo dõi thường xuyên và chặt chẽ có ghi chép, đánh giá mọi sự tiến bộ cũng như những tồn tại chưa khắc phục được của từng em. Để có hướng giải quyết kịp thời. Việc theo dõi đánh giá này thể hiện qua từng ngày, từng tuần.

 

  • Xây dựng kỉ cương, nề nếp

 

Đây là công tác đóng vai trò quan trọng, có thể quyết định đến học tập và mọi phong trào của lớp vì lớp học có trật tự, có nề nếp tốt thì học sinh mới chú ý nghe giảng và hiểu bài được. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc giúp học sinh lĩnh hội hết các kiến thức của tiết học. Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã cho các em học sinh học “Nội quy học sinh”, phân tích kỹ để các em hiểu nội quy đó vì các em còn nhỏ, nếu giáo viên chỉ nêu qua thì học sinh không thể hiểu hết được yêu cầu của nội quy. Do các em còn nhỏ, ít chú ý ghi nhớ các yêu cầu, nội quy của lớp do vậy tôi luôn phải nhắc nhở đến khi các em quen dần, đặc biệt trong một, hai tháng đầu giáo viên phải chỉ dẫn tỉ mỉ cho học sinh từng tí một để các em thực hiện.

Ví dụ : Hướng dẫn học sinh nắm được các ký hiệu trên bảng, cách giơ tay phát biểu, cách sắp xếp đồ dùng học tập, cách trả lời câu hỏi, … từ đó rèn cho học sinh  tác phong nhanh nhẹn trong mọi hoạt động.

 

– Duy trì nề nếp truy trao bài đầu giờ và kiểm tra bài của nhau trong các tiết học giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian và hướng các em vào mục tiêu tự đánh giá kết quả của mình.

 

 

– Trong tuần học đầu tiên, tôi đã đưa ra các yêu cầu thi đua giữa các tổ và các cá nhân các bạn để các em cùng thi đua, phấn đấu.

– Bên cạnh đó, tôi luôn giáo dục các em ý thức giữ gìn môi trường xung quanh xanh, sạch, đẹp giúp cho chúng ta có sức khoẻ tốt. Quy định dọn vệ sinh lớp học (lau chùi bàn ghế, chân tường, cửa sổ vào chiều thứ 5 hàng tuần), hướng dẫn các em cụ thể cả việc đi vệ sinh đúng nơi quy định, vứt rác đúng chỗ.

 

 

  • Bồi dưỡng rèn luyện học sinh , nâng cao chất lượng dạy và học.

 

– Sau khi khảo sát, điều tra tình hình học tập của các em, tôi tiến hành phân loại học sinh để có biện pháp giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng.

– Với những em học sinh chưa ngoan và các em có hoàn cảnh khó khăn tôi thường quan tâm sát sao, khen – chê kịp thời, động viên để các em thấy yêu trường, yêu lớp, thích đi học và chăm chỉ học tập hơn.

– Đối với những em học kém trong, tôi không yêu cầu cao về kiến thức mà mỗi ngày tôi ra bài tập vừa sức để các em có thể làm. Trong các tiết học, tôi luôn ra những câu hỏi dễ để các em trả lời trong các giờ học và chính các bạn trong lớp cũng thường động viên những bạn này bằng những tràng vỗ tay tán thưởng. Vì thế không khí học tập của lớp tôi luôn sôi nổi. Tôi tranh thủ thời gian kèm cặp các em vào những tiết buổi chiều: tiết Luyện Toán, luyện tiếng Việt, tiết hướng dẫn tự học.

 

– Với những em có hoàn cảnh đặc biệt, tôi dành nhiều thời gian cho các em hơn, điều này cũng được tôi giải thích rất rõ với cả lớp để các bạn hiểu và biết chia sẻ giúp đỡ nhau khi tôi không có mặt kịp thời. Thường xuyên gọi điện hay đến thăm gia đình để trao đổi về tình hình học tập và kết hợp cùng phụ huynh kèm cặp các em học ở nhà.

– Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường yêu cầu cao hơn. Trong các giờ học các em thường phải trả lời những câu hỏi khó hơn, làm thêm bài tập dành cho học sinh khá, giỏi. Mọi thao tác cũng phải nhanh nhẹn hơn các bạn học trung bình. Trong các tiết Luyện ở buổi chiều tôi thường ra bài tập, câu hỏi đòi hỏi tính tư duy cao hơn.

– Duy trì và làm tốt phong trào thi đua hoa điểm tốt, phong trào Đôi bạn cùng tiến.

– Tôi luôn giành thời gian cho các em tự bình bầu thi đua giữa các tổ, các cá nhân, các bàn vào các tiết sinh hoạt cuối tuần; bình bầu đôi bạn tiến bộ nhất trong tuần và tiến hành tổng kết thi đua vào cuối tháng. Các tổ và cá nhân xuất sắc được tuyên dương, khen thưởng trước tập thể lớp. Sau mỗi đợt thi đua, tôi trích quỹ lớp để mua phần thưởng tặng các em, phần thưởng có khi chỉ là bông hoa dán lên bảng thi đua, quyển vở, hay hộp bút màu, chiếc bút chì, thước kẻ, quyển truyện tranh… nhưng đã động viên, khuyến khích được các em thi đua học tập, cố gắng vươn lên. Chính vì vậy, nhiều em từ chỗ đọc chậm, ngắc ngứ , viết sai chính tả rất nhiều đến cuối kì 1 đã tiến bộ về đọc và viết. Nhiều em chưa thuộc bảng nhân, chia; thực hiện các phép tính với số thập phân, đổi các đơn vị đo… thường sai nhiều nhưng đến cuối kì 1 đều cố gắng (em Y Seng, em H Hiêng, em H Bảo , em Y Hiêk).

– Để tạo hứng thú học tập cho các em, tôi luôn tạo ra trong lớp một không khí thi đua học tập tốt, sôi nổi : Thi đua giữa các tổ, các nhóm; tuyên dương  cho những em tích cực giơ tay phát biếu ý kiến . Tôi ứng dụng phương pháp dạy học: Lấy học sinh làm trung tâm; phương pháp Bàn tay nặn bột; sử dụng thường xuyên đồ dùng dạy ( Đồ dùng tự làm; đồ dùng mượn nhà trường và tranh ảnh, đồ vật các em tự sưu tầm); đầu tư giáo án điện tử vào dạy các môn Toán, tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử-địa lí; tăng cường hình thức thảo luận nhóm trong dạy học… giúp cho giờ học sinh động hơn, các em nắm chắc kiến thức và nhớ bài lâu hơn. Ngoài ra, tôi còn sắp xếp thời gian để đọc nhiều tài liệu, thường xuyên theo dõi thời sự, tin tức,… để bồi dưỡng kiến thức cho bản thân từ đó giúp cho việc giảng dạy, giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao hơn.

Chính nhờ kiến thức chuyên môn vững vàng , sự gần gũi, nắm bắt tình hình kịp thời của học sinh , quan tâm sát sao tới các em mà sự chuyển biến của học sinh thể hiện rất rõ, tạo sự phấn khởi trong học sinh giúp các em có hướng phấn đấu đi lên.

 

3.6 Một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà.


          Làm công tác chủ nhiệm, ai cũng muốn học sinh của mình học giỏi, có nhiều thành tích trong học tập và cuối năm đạt được kết quả như mong muốn. Để được như thế, người giáo viên cần phải có trình độ chuyên môn, phải có phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách có hiệu quả nhất. Cho nên ngoài việc hướng dẫn các em học ở lớp, thì cần phải học tốt khi ở nhà. Do đó tôi đã đưa ra một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà như sau:

 

  1. a) Học ở lớp:

 

Dựa vào kết quả điều tra thông tin học sinh đầu năm, tôi đã xếp chỗ ngồi cho các em hợp lý, em khá giỏi ngồi gần em yêu kém, kết hợp phân công đôi bạn cùng tiến, tạo điều kiện cho các em học tập theo nhóm đôi, từ đó các em giúp đỡ, hỏi bài nhau trong những lúc giải quyết bài tập khó. Trong giờ học tôi luôn bao quát lớp, không để tình trạng các em không chú ý. Giảng giải thật kĩ những bài tập khó, dùng nhiều phương pháp dạy học linh hoạt như: Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp hỏi đáp, phương pháp kĩ thuật khăn trải bàn, … kích thích sự hứng thú, tích cực và tính tự học, sáng tạo của học sinh. Mặt khác tôi luôn biểu dương, khen ngợi những em hăng say trong giờ học, động viên, giúp đỡ kịp thời những em còn chưa trả lời đúng, hay tự tin, mặc cảm để các em cố gắng vươn lên.

Thực hiện Thông tư số 22/2016/TT-BGD-ĐT ngày 22/09/2016 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc đánh giá học sinh tiểu học. Bản thân tôi luôn thực hiện đúng và kịp thời như trong Thông tư chỉ đạo, không tạo áp lực cho các em khi học, mà ngược lại kích thích, động viên các em rất nhiều. Ngoài việc tổ chức kiểm tra, đánh giá các em bằng lời nhận xét, tôi còn tổ chức cho các em nhận xét lẫn nhau để các em rút ra được bài học kinh nghiệm khi học tốt cũng như học chưa tốt, các em kịp thời sửa chữa, chấn chỉnh ngay, còn thi đua, phấn đấu cao trong học tập.

  1. b) Học ở nhà:

 

Ngoài việc học tốt ở lớp, nếu các em về nhà không ôn tập, không học lại thì dẫn tới dễ quên, mạch kiến thức sẽ bị hỏng, không thực hành được tốt. Vậy việc học bài và làm bài tập thêm ở nhà cũng rất cần thiết, phần nào giúp các em nắm vững kiến thức ở lớp, học thuộc bài khi cô kiểm tra bài cũ,…Thế nên tôi đã có một số biện pháp giúp các em học tốt khi ở nhà, đó là:
+ Lập thời gian biểu hợp lý nhất chung cho tất cả các em.

+ Thường xuyên kiểm tra bài cũ, việc làm bài tập thêm ở nhà.

+ Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, để trao đổi tình hình học tập của các em, như là gọi điện, liên lạc bằng sổ, trực tiếp đến nhà,…Đặc biệt quan tâm trao đổi thường xuyên với phụ huynh học sinh cá biệt, những em còn yếu kém, tạo mọi điều kiện giúp đỡ kịp thời.

 

3.7. Tổ chức các hoạt động xây dựng tập thể lớp và rèn kĩ năng sống cho HS.

 

Một tập thể lớp tốt là một tập thể đoàn kết, thân ái, thân thiện, cởi mở, tôn trọng nhau. Để xây dựng tập thể đó tôi đã tạo điều kiện cho học sinh thể hiện sự quan tâm lẫn nhau. Chẳng hạn thăm hỏi bạn bị ốm; giúp đỡ khi bạn khó khăn… Để các tiết Hoạt động tập thể thực sự có hiệu quả, tôi đã tăng cường tổ tổ chức trò chơi hoặc hướng dẫn HS tự tổ chức trò chơi. Thiết nghĩ những giờ sinh hoạt vui chơi như vậy sẽ giúp HS mạnh dạn hơn, tăng cường sự gắn bó đoàn kết trong lớp học. Chẳng hạn tôi đã chia lớp thành 3 tổ, mỗi tổ sẽ đảm nhận nhiệm vụ tổ chức trò chơi trong giờ sinh hoạt của từng tuần. Tôi định hướng cho các em tìm một số trò chơi hấp dẫn như Đoán tên đồ vật (con vật ) qua hành động; Kể chuyện cười, đưa ra các câu đố vui…. Biện pháp giáo dục tích cực này đã được HS trong lớp nồng nhiệt hưởng ứng, đã kích thích được sự chủ động, tinh thần tham gia vào tất cả các phong trào của trường, của đội nhất là các hoạt động tập thể của các em.

– Vận động giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn: các em có hoàn cảnh đặc biệt tôi đã cùng tập thể học sinh trong lớp quyên góp đồ dùng học tập, quần áo và tiền mặt để thăm hỏi, động viên các em (em H Ra Ni, em Y Seng, em H Hiêng). Những việc làm nhỏ bé tuy giá trị vật chất không đáng là bao nhưng đã tạo được tình cảm gắn bó, các em biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần đoàn kết tương trợ cao.

– Đối với những học sinh cá biệt , tôi luôn cố gắng tìm cơ hội để khen ngợi, động viên các em có hành vi tích cực dù đó chỉ là một hành vi nhỏ. Đồng thời cho cả lớp chỉ ra những điểm tốt thay vì chỉ nhìn thấy những điều chưa tốt về bạn.Vì điều đó sẽ giúp các em này thấy được sự quan tâm, thương yêu, sự tin tưởng của bạn bè, thầy cô và sẽ tự điều chỉnh bản thân. Chẳng hạn trong giờ học, em đó chỉ cần trật tự, viết bài đầy đủ cũng đã được khen rồi.

Giáo dục kĩ năng sống cho HS cũng là một việc làm hết sức cần thiết. Do đó, tôi đã tổ chức cho HS tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khóa như: Thi vẽ tranh theo chủ đề An toàn giao thông. Tham gia Đố vui để học. Tìm hiểu về phòng tránh tai nạn ở trường học, ở gia đình; Phòng tránh tai nạn giao thông; Tìm hiểu Quyền trẻ em; Các trò chơi vận động, trò chơi dân gian, …Qua đó, tôi thấy các em đã bộc lộ chân thật những suy nghĩ, tình cảm, hành vi trong các hoạt động, biết chia sẻ những khó khăn, niềm vui cũng như tự hoàn thiện dần các kĩ năng thực hành một cách tự nhiên.

 

 

Tùy theo từng bài học mà hình thành những kĩ năng tích hợp cho HS như kĩ năng ra quyết định, kĩ năng xử lý tình huống, kĩ năng tự học, kĩ năng làm việc hợp tác.

 

3.8. Công tác phối kết hợp với các cơ quan đoàn thể

 

          Công tác phối kết hợp, là một trong những biện pháp hữu hiệu, nhằm răn đe, quán triệt có hiệu quả cao. Đôi khi có những công việc, nội dung hay tình huống mà một mình giáo viên không thể giải quyết được thì cần phải nhờ sự hỗ trợ của Ban giám hiệu nhà trường, hoặc Đội và các giáo viên bộ môn nếu có thể. Vì vậy, khi làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn nhờ sự tư vấn, chỉ đạo từ phía Ban giám hiệu nhà trường cho phép tôi mới thực hiện, gặp trường hợp nào cần đến sự hỗ trợ xử lư của Ban giám hiệu là tôi lập tức báo cáo, cùng với Ban giám hiệu để có biện pháp tốt và hay nhất.

Về phía Đội, tôi luôn kết hợp giáo dục các em cùng với thầy Tổng phụ trách Đội, vì chức năng của Đội là tổ chức lễ chào cờ, các buổi sinh hoạt tập thể, các cuộc thi, các phong trào,…Cho nên để phát huy khả năng, năng lực của các em, tôi luôn cộng tác với anh Tổng phụ trách tạo cơ hội, điều kiện cho các em thể hiện. Bên cạnh đó, nếu có những những em chưa ngoan, phạm lỗi thì tôi cũng kết hợp với Đội để tạo sức răn đe, giáo dục có hiệu quả.
Ngoài kết hợp với Ban giám hiệu, Đội tôi còn phối kết hợp với các thầy, cô giáo bộ môn, như là hỏi thăm về tình hình học tập, các hoạt động khác mà các thầy cô giáo bộ môn phụ trách, đồng thời kết hợp, đưa ra những biện pháp phù hợp giáo dục các em trong tất cả các giờ học trên lớp dù không có giáo giên chủ nhiệm, các em cũng vẫn ngoan, vâng lời, học tập và tham gia tốt mọi hoạt động.

 

  1. Kết quả sau khi kết hợp các biện pháp:

 

Với những biện pháp nêu trên, tôi thật sự vui mừng vì sự đầu tư của mình đã đạt được kết quả tốt:

– Đa số HS của lớp tôi chủ nhiệm có ý thức, kỉ luật cao. Biết phê và tự phê bình, mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể.

– Đa số học sinh trong lớp đã có tinh thần tự giác cao, có tinh thần tự học, thi đua học tập rất sôi nổi ngay trong từng giờ học. Nhiều em có tiến bộ rõ rệt trong học tập.

– Giờ truy bài thực sự hữu ích với các em vì đó chính là giờ tự học, tự kiểm tra rất có kết quả.

– Các em đã tích cực chuẩn bị bài ở nhà, luôn sẵn sàng tham gia các phong trào của lớp, của trường.

– Có tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Ý thức chấp hành nội quy của trường tốt.

Tất cả các biện pháp đã nêu trên đều đã được thực hiện ở lớp 5A3 tôi chủ nhiệm. Việc thực hiện đều có kiểm tra đánh giá từng mặt, trên cơ sở đó đã rút ra ưu khuyết điểm và tìm cách khắc phục.

 

Kết quả đạt được trong năm học 2016- 2017 như sau :

 

Về kiến thức, kĩ năng

 

 

 

 

 

MÔN HỌC

 

MỨC ÐẠT ÐƯỢC

 

 

HOÀN THÀNH

TỐT

 

HOÀN THÀNH

 

CHƯA

HOÀN THÀNH

 

SỐ LƯỢNG TỈ LỆ SỐ LƯỢNG TỈ LỆ SỐ LƯỢNG TỈ LỆ
TIẾNG VIỆT 6 24% 19 76% 0
TOÁN 5 20% 20 80% 0
KHOA HỌC 7 28% 18 72% 0
LỊCH SỬ & ÐỊA LÍ 5 20% 20 80% 0
TIẾNG Ê ĐÊ 9 36% 16 64% 0
ÐẠO ÐỨC 8 32% 17 68% 0
ÂM NHẠC 8 32% 17 68% 0
MĨ THUẬT 5 20% 20 80% 0
KĨ THUẬT 8 32% 17 68% 0
THỂ DỤC 7 28% 18 72% 0

 

*/ Về năng lực và phẩm chất:

 

NĂNG LỰC

PHẨM CHẤT

 

BIỂU HIỆN

HOẶC

HÀNH VI

 

MỨC ÐẠT ÐÝỢC

TỐT ĐẠT CCG
SL TL SL TL SL TL
 

NĂNG LỰC

Tự phục vụ, tự quản 8 32% 17 68% 0
Hợp tác 8 32% 17 68% 0
Tự học và giải quyết vấn đề 7 28% 18 72% 0
 

PHẨM CHẤT

Chăm học, chăm làm 8 32% 17 68% 0
Tự tin, trách nhiệm 7 28% 18 72% 0
Trung thực, kỉ luật 8 32% 17 68% 0
Đoàn kết, yêu thương 8 32% 17 68% 0

 

* Các mặt khác:

 

– Duy trì sĩ số 100%

– Lớp đạt danh hiệu : Lớp tiên tiến.

– Chi Đội đạt Chi đội vững mạnh.

– Nghi thức cấp trường lớp đạt giải nhất.

– Văn nghệ đạt giải nhất.

– Vở sạch chữ đẹp : xếp loại A : 20 em = 80%

– Đạt giải khuyến khích cuộc thi “Giao lưu Tiếng Việt” cấp thị xã.

– 100% học sinh tham gia ủng hộ các hoạt động nhân đạo.

 

 

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

 

  1. Bài học kinh nghiệm:

 

Qua kết quả cụ thể đạt được, với những biện pháp cụ thể sát sao. Tôi thấy rằng  xét về hiệu quả chung đã có kết quả khả quan và sự nhìn nhận đánh giá của nhà trường, Đội thiếu niên. Trong năm học qua lớp tôi được Bạn thi đua bình chọn danh hiệu lớp tiên tiến . Điều tôi nhận thấy đó là kết quả của sự phấn đấu không ngừng của các em học sinh và sự sát sao của giáo viên chủ nhiệm với các em trong mọi hoạt động.Tuy vậy

nhận thức chậm của một số học sinh chưa được khắc phục triệt để vì vậy bản thân tôi cần phải tìm ra biện pháp thích hợp hơn để khắc phục điều này, để có kết của cao và vững hơn. Điều kiện quan tâm đắc của tôi và của các em học sinh lớp 5A3 là xây dựng một tập thể lớp tự quản, vững mạnh, đoàn kết.

Qua thực tế thực hiện một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp tôi rút ra bài học như sau:

+ Giáo viên phải nắm chắc tình hình học sinh của lớp.

+ Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm sát với tình hình thực tế.

+ Xây dựng tốt kỷ cương nề nếp của lớp.

+ Bồi dưỡng rèn luyện học sinh và nâng cao chất lượng dạy và học.

+ Xây dựng tập thể lớp thành một tập thể đoàn kết biết giúp đỡ nhau trong học tập và rèn luyện.

+ Chăm lo đến học sinh về mọi mặt. Đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu và các em có hoàn cảnh khó khăn.

+ Xây dựng tốt quan hệ gia đình – nhà trường – xã hội.

 

  1. Kết luận:

 

Giáo dục là sự quan tâm đến sự phát triển của học sinh về kỹ năng kiến thức về các giá trị đạo đức, tinh thần. Vừa kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, vừa năng động, sáng tạo để bước kịp thời đại. Do đó giáo dục học sinh vừa phù hợp mục tiêu giáo  dục là nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp. Muốn có được điều này thì phương pháp giáo dục học sinh của giáo viên chủ nhiệm là vô cùng quan trọng. Ý thức được điều này, tôi đã cố gắng để xây dựng thành một tập thể đoàn kết, thân ái trong đó có sự nỗ lực của mỗi học sinh. Sự chỉ đạo trong công việc thể hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau.

Qua đó tôi đã rút ra được kinh nghiệm làm việc của mình.Với những cơ sở lý luận và thực tiễn, vấn đề đã được trình bày ở đây, mong rằng dù chỉ là một chút kinh nghiệm nhỏ nhưng xin đóng góp với đồng nghiệp về kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ở tiểu học.

 

  1. Kiến nghị :

 

Qua nhiều năm là giáo viên chủ nhiệm, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:

 

– Giáo viên chủ nhiệm lớp phải thật sự yêu nghề, tâm huyết với nghề, luôn hết lòng vì học sinh. Là người có năng lực tổ chức, quản lí lớp, có kĩ năng sư phạm vững vàng, phải tạo mối quan hệ tốt với học sinh, với phụ huynh .

– Giáo viên phải có kế hoạch giáo dục, kế hoạch bài giảng cụ thể, sát hợp với thực tế của lớp. Luôn đổi mới phương pháp dạy học

– Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã hội.

– Đối với các phụ huynh phải cần quan tâm hơn nữa con em, phải quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, phải thật sự là tấm gương mẫu mực cho con em mình. Có như vậy thì cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ GD&ĐT mới ngày càng đạt hiệu quả cao.

– Hằng năm cần tổ chức các phong trào thi đua về một số nội dung liên quan đến công tác chủ nhiệm giữa các lớp, các khối.

– Tổ chức những buổi sinh hoạt dành riêng cho giáo viên chủ nhiệm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, kể những câu chuyện liên quan đến công tác chủ nhiệm,…cho nhau nghe để học hỏi, trau dồi lẫn nhau.

– Trong thư viện cần bổ sung thêm sách, tài liệu về công tác chủ nhiệm, để giáo viên tham khảo, học tập.

Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi mà tôi đã áp dụng trong công tác chủ nhiệm lớp 5A3 năm học 2016- 2017. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của Ban giám hiệu cùng các đồng nghiệp.

 

Xin trân trọng cảm ơn !

 

Xác nhận Hiệu trưởng                        Ea Drông, ngày   tháng  năm 2018

Người viết

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

Mục Tiêu đề các phần Trang
1 Tên đề tài 1
2 Phần I. Phần mở đầu 1
3 1. Lí do chọn đề tài 1
4 2. Mục đích nghiên cứu 2
5 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
6 4. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu 2
7 5. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu 2
8 6. Phương pháp nghiên cứu 3
9 7. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu 3
10 Phần II. Nội dung

1.     Cơ sở lí luận

4
2.     Thực trạng 5
3.     Các biện pháp thực hiện 8
4.     Kết quả sau khi thực hiện các biện pháp 18
11 Phần III. Kết luận và kiến nghị 20
1. Bài học kinh nghiệm 20
2. Kết luận 20
3. Kiến nghị 21

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

STT TÊN TÀI LIỆU NHÀ XUẤT BẢN GHI CHÚ
1 Cấu trúc một sáng kiến kinh nghiệm CV 194/ HD- HĐKH&CN
2 Sổ tay công tác chủ nhiệm NXB Giáo dục Việt Nam
3 Tâm lí học sư phạm NXB Giáo dục Việt Nam
4 NQ 29- NQ/TƯ về GD&ĐT NXB Giáo dục Việt Nam
5 Công tác chủ nhiệm lớp ở trường tiểu học

 

NXB Giáo dục Việt Nam
6 Luật Giáo dục NXB Giáo dục Việt Nam
7 Điều lệ trường tiểu học NXB Giáo dục Việt Nam